TIN GIÁO HỘI KHẮP NƠI

Đức Thánh Cha Phanxicô tông du Hoa Kỳ: “Hãy cứu vớt các thế hệ mai sau khỏi tai hoạ của chiến tranh”

“Sự hiểu biết cơ bản nhất về phẩm giá con người buộc cộng đồng quốc tế, đặc biệt là thông qua các chuẩn mực và các bộ máy luật pháp quốc tế, phải làm tất cả những gì có thể làm để chấm dứt và ngăn chặn sự gia tăng bạo lực có hệ thống nhằm vào các nhóm thiểu số sắc tộc và tôn giáo” và để bảo vệ những người vô tội.

Đức Thành chuyển ngữ

 


Thưa Ông Chủ tịch,

 

 
Thưa Quý vị,
 
 
Xin chào Ông Chủ tịch và Quý vị. Theo thông lệ, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một lần nữa đã mời Giáo hoàng đến phát biểu tại hội đồng danh giá này của các quốc gia, tôi thấy thật vinh hạnh. Với danh nghĩa cá nhân và nhân danh toàn thể cộng đồng Công giáo, tôi muốn được nói lên lòng biết ơn chân thành của tôi đối với ông Ban Ki-moon. Xin chào quý vị Nguyên thủ Quốc gia và quý vị Lãnh đạo Chính phủ đang hiện diện nơi đây, cũng như quý vị đại sứ, các nhà ngoại giao và các viên chức chính trị, kỹ thuật trong đoàn tháp tùng, quý viên chức Liên Hiệp Quốc tham gia Khoá họp thứ 70 của Đại Hội đồng, quý viên chức các chương trình và cơ quan của gia đình Liên Hiệp Quốc, và tất cả mọi người bằng cách này cách khác tham gia vào cuộc họp này. Tôi cũng xin quý vị chuyển lời chào đến nhân dân các nước có đại diện tại hội trường này. Xin cảm ơn tất cả quý vị và cá nhân từng vị đã nỗ lực phụng sự nhân loại.
 
 
Đây là lần thứ năm một vị giáo hoàng đến thăm Liên Hiệp Quốc. Tôi tiếp bước các vị tiền nhiệm của mình: Đức Phaolô VI năm 1965, Đức Gioan Phaolô II năm 1979 và 1995, và vị tiền nhiệm gần nhất, Đức Bênêđictô XVI năm 2008. Tất cả các ngài đều rất quý mến Tổ chức LHQ, coi đây là sự đáp ứng chính trị và pháp lý thích hợp đối với thời điểm hiện nay của lịch sử, điển hình là khả nãng kỹ thuật của chúng ta vượt qua được những khoảng cách và biên giới, và rõ ràng, vượt qua mọi giới hạn tự nhiên để thực thi quyền hành. Khả năng đáp ứng cần thiết, nhờ sức mạnh của kỹ thuật, nếu rơi vào tay các loại ý thức dân tộc chủ nghĩa hoặc các ý thức hệ đại đồng chủ nghĩa giả mạo, thì có thể phạm những tội ác đáng sợ. Tôi chỉ muốn nhắc lại những nhận định của các vị tiền nhiệm muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của Giáo hội Công giáo khi gắn kết với Tổ chức Liên Hiệp Quốc và khẳng định Giáo hội đặt hy vọng vào những hoạt động của tổ chức này.
 
 
Liên Hiệp Quốc đang kỷ niệm 70 năm thành lập. Lịch sử của tổ chức các quốc gia này là một thành quả chung có ý nghĩa quan trọng trong một thời kỳ diễn ra những thay đổi nhanh chóng khác thường. Không nói quá, chúng ta có thể kể đến việc đưa ra quy tắc và phát triển luật pháp quốc tế, thiết lập các chuẩn mực quốc tế đối với các quyền con người, hoàn thiện luật nhân đạo, giải quyết các xung đột, các chiến dịch gìn giữ hoà bình và hoà giải, và nhiều thành quả khác trong mọi lĩnh vực hoạt động và nỗ lực quốc tế. Tất cả những thành quả này là ánh sáng góp phần xua tan bóng tối của những tham vọng vô độ và thói ích kỷ đội lốt tập thể. Chắc chắn vẫn còn nhiều vấn đề nghiêm trọng cần được giải quyết, nhưng rõ ràng, không có mọi hoạt động quốc tế này, nhân loại sẽ không còn được sử dụng tự do những khả năng của mình. Mỗi tiến bộ về chính trị, pháp lý và kỹ thuật đều là đường dẫn đến việc đạt được lý tưởng huynh đệ và là phương tiện thực hiện chúng một cách có hiệu quả hơn.
 
 
Tôi cũng xin bày tỏ niềm ngưỡng mộ đối với mọi người nam nữ đã tận tụy hy sinh cho nhân loại trong suốt 70 năm qua. Đặc biệt, hôm nay tôi muốn được nhắc đến những vị đã dâng đời mình cho nền hoà bình và sự hoà giải giữa các dân tộc, từ Dag Hammarskjöld đến nhiều viên chức thuộc các cấp của Liên Hiệp Quốc đã bị sát hại đang khi thực thi sứ mạng nhân đạo, hoà bình và hoà giải.
 
 
Bên cạnh những thành quả, kinh nghiệm của 70 năm qua cho thấy rõ việc cải tổ và thích ứng với thời đại luôn luôn cần thiết trong việc theo đuổi mục tiêu cuối cùng là mang lại cho các dân tộc, không trừ một dân tộc nào, quyền được tham gia và tác động một cách thích đáng và bình đẳng vào tiến trình biểu quyết. Thật sự cần phải bình đẳng hơn nữa trong các cơ quan điều hành có tầm ảnh hưởng, chẳng hạn Hội đồng Bảo an, các Cơ quan Tài chính và các tổ chức hoặc cơ chế được đặt ra nhằm giải quyết các cuộc khủng hoảng kinh tế. Điều này sẽ góp phần hạn chế các loại lạm dụng hoặc hối lộ, đặc biệt tại các nước đang phát triển. Các Cơ quan Tài chính quốc tế phải lưu tâm giúp đỡ sự phát triển bền vững các quốc gia và cần bảo đảm rằng các quốc gia này không bị các hệ thống cho vay chèn ép. Các hệ thống này, vốn chẳng đoái hoài việc cổ võ sự tiến bộ, o ép các nước đi vào những cơ chế làm cho nghèo hơn, loại trừ và bắt người ta phụ thuộc vào họ.
 
 
Công việc của Liên Hiệp Quốc, theo những nguyên tắc được nêu trong Lời mở đầu và các Điều đầu tiên của Hiến chương thành lập, có thể xem như sự phát triển và thúc đẩy quy tắc pháp lý, dựa trên nhận thức công bằng là điều kiện chủ yếu để đạt tới lý tưởng của tình huynh đệ phổ quát. Vì thế, cũng nên nhắc lại rằng việc giới hạn quyền lực là nội dung được hàm chứa trong chính khái niệm luật pháp. Trả lại cho người khác những gì của họ, là định nghĩa cổ điển về công bằng, không một cá nhân hay một nhóm người nào được coi mình là tuyệt đối, cho phép mình phủ nhận phẩm giá và quyền của của các cá nhân con người hoặc các nhóm xã hội của họ. Việc phân phối quyền lực (về chính trị, kinh tế, quốc phòng, kỹ thuật, v.v.) trong nội bộ phe đa số, và việc lập ra hệ thống pháp lý nhằm quy định các yêu cầu và lợi ích, là một cách cụ thể giới hạn quyền lực. Thế giới ngày nay cho chúng ta thấy có nhiều quyền lợi giả tạo, đồng thời, cả một khu vực rộng lớn gồm những người yếu thế, những nạn nhân của tình trạng lạm quyền: chẳng hạn, môi trường tự nhiên và những tầng lớp đông đảo bị loại trừ. Những khu vực này có mối liên hệ mật thiết và ngày càng trở nên mong manh bởi các mối quan hệ chính trị và kinh tế đang nắm quyền chi phối. Vì lẽ đó các quyền của họ phải được khẳng định mạnh mẽ, qua việc bảo vệ môi trường và chấm dứt việc loại trừ.
 
 
Trước hết, phải nói lên “môi trường thực sự là một quyền”, vì hai lý do. Thứ nhất, vì con người là một thành phần của môi trường. Chúng ta sống hiệp thông với môi trường, vì bản thân môi trường đặt ra những giới hạn về đạo đức mà hoạt động của con người phải nhìn nhận và tôn trọng. Dù được ban cho những khả năng vượt trội “cho thấy sự độc đáo vượt trên phạm vi vật lý và sinh học” (Thông điệp Laudato Si’, 81), nhưng con người cũng là một thành phần của những phạm vi này. Con người mang một thân xác gồm những yếu tố vật lý, hoá học và sinh học, và chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu có môi trường sinh thái thích hợp. Vì vậy bất cứ tác hại nào đối với môi trường cũng đều gây phương hại cho con người. Thứ hai, là vì mọi thụ tạo, cụ thể loài có sự sống, đều có giá trị nội tại, trong chính hiện hữu, sự sống, vẻ đẹp của chúng và trong sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng với các thụ tạo khác. Đối với người Kitô hữu chúng tôi, cùng với các tôn giáo độc thần khác, vũ trụ là hoa trái của quyết định đầy lòng yêu thương của Tạo Hoá, Đấng cho phép con người được sử dụng công trình tạo dựng của Ngài một cách tôn trọng để mưu ích cho những con người đồng loại và vinh danh Đấng Tạo Hoá; con người không được phép lạm dụng, lại càng không được hủy hoại công trình tạo dựng đó. Đối với tất cả các tôn giáo, môi trường luôn là sự thiện căn bản (x. tài liệu đã dẫn, 81).
 
 
Việc lạm dụng và phá hoại còn kèm theo quá trình không ngừng loại bỏ môi trường. Quả thật, sự thèm khát một cách ích kỷ và không có điểm dừng đối với quyền lực và của cải vật chất vừa đưa đến sự lạm dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên vừa loại bỏ những người yếu ớt và thiểu năng, kể cả vì họ có những khả năng khác (người tàn tật), hoặc vì thiếu thông tin đầy đủ và những phương tiện kỹ thuật chuyên môn, hoặc không đủ khả năng nhận định chính trị. Sự loại trừ về mặt xã hội và kinh tế là hoàn toàn khước từ tình huynh đệ của con người và vi phạm nghiêm trọng những quyền của con người và môi trường. Người nghèo nhất là những người phải hứng chịu nhiều nhất những vi phạm đó, vì ba lý do nghiêm trọng sau: bị xã hội gạt ra ngoài lề, phải sống bằng những thứ phế thải và hứng chịu một cách bất công sự lạm dụng môi trường. Những hiện tượng này là một phần của “văn hoá phế thải’ ngày nay đang lan tràn và âm thầm phát triển.
 
 
Chính tình trạng bi thảm của sự loại trừ và bất công với những hậu quả hiển nhiên đã khiến tôi, cùng toàn thể Kitô hữu và nhiều người khác, ý thức về trọng trách của mình về vấn đề này và lên tiếng cùng với những người đang kiếm tìm những giải pháp cấp bách và hiệu quả. Việc áp dụng “Lịch trình 2030 vì sự Phát triển bền vững” tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới, được khai mạc vào hôm nay, là một dấu chỉ quan trọng của niềm hy vọng. Tương tự, tôi cũng tin chắc Hội nghị Paris về Biến đổi Khí hậu bảo đảm sẽ đạt được các thoả thuận căn bản và thiết thực.
 
 
Tuy nhiên những cam kết dù được đưa ra long trọng nhưng vẫn chưa đủ, tất nhiên đây là bước cần thiết để đi tới những giải pháp. Định nghĩa cổ điển về công bằng tôi nêu ở trên nêu ra một trong những yếu tố chính trong nội dung công bằng, đó là ước nguyện muôn thuở và bất di bất dịch: Iustitia est constans et perpetua voluntas ius sum cuique tribuendi (Công bằng là ý chí kiên định và mãi mãi phải trả lại cho mỗi người những gì thuộc về họ). Thế giới chúng ta đòi hỏi tất cả các nhà lãnh đạo chính phủ phải cho thấy một quyết tâm hữu hiệu, thực tế và vững bền, những bước đi cụ thể và những biện pháp nhằm bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, từ đó chấm dứt càng nhanh càng tốt hiện tượng loại trừ trong xã hội và kinh tế với những hậu quả tai hại của nó: nạn buôn người, buôn bán các bộ phận và các mô của cơ thể con người, nạn khai thác tình dục đối với trẻ em nam nữ, lao động nô lệ, bao gồm mại dâm, ma túy và buôn bán vũ khí, chủ nghĩa khủng bố và tội ác có tổ chức quốc tế. Tầm mức của tình hình và cái giá của chúng gây ra cho những cuộc đời vô tội lớn đến độ chúng ta phải tránh sa vào thứ duy danh chủ nghĩa thùng rỗng kêu to nhằm ve vuốt lương tâm chúng ta. Chúng ta cần bảo đảm mọi tổ chức của chúng ta phải thực sự hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống lại mọi tai hoạ này.
 
 
Số lượng và tính chất phức tạp của các vấn đề đòi chúng ta phải có trong tay những công cụ kỹ thuật dùng để kiểm chứng. Nhưng điều này lại có hai nguy cơ. Chúng ta có thể chỉ biết hài lòng với công việc bàn giấy soạn những bản danh sách dài liệt kê những đề nghị tốt đẹp – nào là mục tiêu, đối tượng, con số thống kê – hoặc cho rằng chỉ cần một giải pháp mang tính lý thuyết và lý luận là đủ giải quyết mọi thách đố. Đừng bao giờ quên rằng hoạt động chính trị và kinh tế chỉ hữu hiệu khi được hiểu đó là một hoạt động cẩn trọng, được dẫn dắt bởi một quan niệm bền vững về công bằng và không ngừng ý thức rằng: vượt trên và vượt qua các kế hoạch và chương trình, chúng ta đang làm việc với những người nam, người nữ đang sống, đang tranh đấu và đang chịu đựng, và họ thường bị đẩy vào cảnh khốn cùng, bị tước đoạt mọi quyền lợi.
 
 
Để những người nam, người nữ bằng xương bằng thịt này thoát khỏi cảnh cùng khốn, chúng ta phải cho họ được thực sự làm chủ vận mệnh mình. Không thể áp đặt việc phát triển con người toàn diện và sống phẩm giá toàn vẹn của con người. Chúng phải được xây đắp và khai triển cho từng người, từng gia đình, trong sự hiệp thông với mọi người và trong mối quan hệ đúng đắn với mọi khu vực phát triển đời sống xã hội của con người – bạn bè, cộng đồng, phố phường, trường học, doanh nghiệp và nghiệp đoàn, tỉnh thành, quốc gia, v.v. Như thế đặt ra điều kiện tiên quyết và đòi hỏi quyền giáo dục – cả cho trẻ nữ (ở một số nơi bị loại trừ) – phải được bảo đảm bằng việc tôn trọng và củng cố quyền của gia đình được ưu tiên trong việc giáo dục con cái, cũng như quyền của các giáo hội và hội đoàn xã hội được nâng đỡ và trợ giúp các gia đình trong việc giáo dục con cái họ. Khi giáo dục được quan niệm như thế, sẽ trở thành nền tảng cho việc thực hiện Lịch trình 2030 và cứu lấy môi trường.
 
 
Đồng thời các nhà lãnh đạo chính phủ phải làm mọi việc có thể để bảo đảm cho mọi người có được các phương tiện tinh thần và vật chất tối thiểu, cần thiết, để họ được sống trong phẩm giá, được sáng tạo và nuôi sống gia đình, tế bào hàng đầu của mọi phát triển xã hội. Trên thực tế, mức tối thiểu gồm ba thứ, mang tên: nhà ở, việc làm, đất đai; và một mức tối thiểu về tinh thần, gọi là: tự do tinh thần, gồm tự do tôn giáo, quyền giáo dục và mọi quyền dân sự khác.
 
 
Đối với tất cả các điều này, biện pháp đơn giản nhất và tốt nhất, đồng thời là tiêu chí cho Lịch trình mới về phát triển được thực hiện hiệu quả, thiết thực và làm được ngay, liên quan đến mọi nhu cầu thiết yếu về vật chất và tinh thần: nhà ở, việc làm được trả lương xứng đáng và đúng mức, được ăn uống đầy đủ; tự do tôn giáo và, khái quát hơn, tự do tinh thần và giáo dục. Những cột trụ này của sự phát triển toàn diện con người có một nền tảng chung, đó là quyền sống, và nói khái quát, là những gì có thể gọi là quyền được sống cho ra con người.
 
 
Cuộc khủng hoảng sinh thái, và sự hủy diệt trên quy mô lớn đối với sự đa dạng sinh học, có thể đe doạ chính sự hiện hữu của chủng người. Những hậu quả tai hại của việc quản lý yếu kém vô trách nhiệm trong nền kinh tế toàn cầu, được dẫn dắt duy nhất bởi lòng ham mê giàu có và quyền lực, phải được coi là một lời kêu gọi suy nghĩ nghiêm túc về con người: “Con người không tạo ra tự do cho mình. Con người không tự dựng nên mình. Con người là tinh thần và ý chí, nhưng cũng còn là thiên nhiên” (Bênêđictô XVI, Diễn văn tại Quốc hội Liên bang Đức, 22 tháng Chín 2011, được trích dẫn trong Thông điệp Laudato Si’, 6). Công trình tạo dựng bị xâm hại “ở những nơi nào chúng ta giành nói lời quyết định… Sự lạm dụng công trình tạo dựng bắt đầu khi nào chúng ta không còn nhìn nhận có sự phán xét ở trên mình, không thấy gì khác mà chỉ thấy mình (Bênêđictô XVI, Huấn từ trong buổi tiếp kiến hàng Giáo sĩ Giáo phận Bolzano- Bressanone, 6 tháng Tám 2008). Do đó, việc bảo vệ môi trường và cuộc chiến đấu chống sự loại trừ đòi chúng ta phải nhìn nhận có một luật luân lý được ghi vào bản tính con người, luật này gồm cả sự khác biệt tự nhiên giữa người nam và người nữ (x. Thông điệp Laudato Si’, 155) và việc tuyệt đối tôn trọng sự sống ở mọi giai đoạn và trong mọi chiều kích của nó (x. tlđd, 123, 136).
 
 
Nếu không nhìn nhận một số giới hạn đạo đức tự nhiên mà ta không thể chối bỏ, nếu không thực hiện ngay lập tức các cột trụ của sự phát triển toàn diện con người trên đây, thì lý tưởng “cứu vớt các thế hệ mai sau khỏi tai hoạ của chiến tranh” (Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Lời mở đầu), và “thúc đẩy tiến bộ xã hội và các tiêu chuẩn sống tốt hơn trong một tự do lớn hơn” (tlđd.), có nguy cơ trở thành một ảo tưởng không thể đạt tới, hoặc, tệ hơn, trở thành câu chuyện tầm phào dùng để che đậy mọi thứ lạm dụng và suy đồi, hay để thi hành một chính sách thực dân mang tính ý thức hệ bằng cách áp đặt các kiểu mẫu và lối sống dị thường xa lạ với bản sắc con người và, cuối cùng, là vô trách nhiệm.
 
 
Chiến tranh tiêu diệt mọi thứ quyền và tấn công quyết liệt vào môi sinh. Nếu chúng ta muốn mọi người được phát triển toàn diện thực sự về nhân bản, chúng ta phải nỗ lực không mệt mỏi để tránh chiến tranh giữa các quốc gia và các dân tộc.
 
 
Để đạt mục tiêu này, chúng ta cần bảo đảm nền pháp trị không thể phản bác và đàm phán không mệt mỏi, trung gian và trọng tài, như đã được đề ra trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc, hiến chương đã thực sự thiết lập một chuẩn mực pháp lý nền tảng. Kinh nghiệm của bảy mươi năm qua từ khi thành lập Liên Hiệp Quốc nói chung, và đặc biệt là kinh nghiệm của mười lăm năm đầu thiên niên kỷ thứ ba, vừa cho thấy hiệu quả của việc áp dụng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế vừa cho thấy sự thiếu hiệu quả khi không thi hành các chuẩn mực ấy. Khi Hiến chương Liên Hiệp Quốc được tôn trọng và áp dụng cách minh bạch và chân thành, và không có những động cơ thầm kín, được dùng làm điểm tham chiếu bắt buộc cho công lý chứ không phải như một phương tiện che giấu các ý đồ giả mạo, thì sẽ có các kết quả hoà bình. Trái lại, khi chuẩn mực này chỉ đơn giản được coi như một công cụ để sử dụng bất cứ khi nào thấy thuận lợi, và tránh không dùng đến khi nó bất lợi, thì chiếc hộp Pandora thực sự sẽ mở tung, thả ra các sức mạnh không thể kiểm soát được, gây nguy hại trầm trọng cho những con người vô phương tự vệ, cho môi trường văn hoá và cả môi trường sinh học.
 
 
Lời mở đầu và Điều một của Hiến chương Liên Hiệp Quốc xác lập những nền tảng cho khuôn khổ pháp lý quốc tế: hoà bình, giải pháp hoà bình cho các cuộc tranh chấp và phát triển các quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc. Phản đối mạnh mẽ các tuyên bố này, và trong thực tế bác bỏ chúng, là khuynh hướng phổ biến vũ khí, đặc biệt là vũ khí giết người hàng loạt, như vũ khí hạt nhân. Một nền đạo đức và luật lệ dựa trên sự đe doạ hủy diệt lẫn nhau –và có thể tiêu diệt toàn thể nhân loại– là tự mâu thuẫn và một sỉ nhục đối với toàn bộ khuôn khổ của Liên Hiệp Quốc, vốn kết cuộc lại trở thành “các quốc gia liên kết với nhau vì sợ hãi và ngờ vực”. Chúng ta có nhu cầu cấp thiết phải xây dựng một thế giới không có vũ khí hạt nhân, áp dụng đầy đủ Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, cả về mặt chữ lẫn ý nghĩa, với mục tiêu ngăn cấm hoàn toàn các loại vũ khí này.
 
 
Thoả thuận mới đây về vấn đề hạt nhân ở một khu vực nhạy cảm của châu Á và Trung Đông là bằng chứng cho thấy tiềm năng của thiện chí chính trị và luật pháp, nếu được thực thi cách thành thực, kiên nhẫn và kiên trì. Tôi hy vọng rằng thoả thuận này sẽ kéo dài và có hiệu quả, và mang lại những kết quả mong muốn nhờ sự hợp tác của tất cả các bên có liên quan.
 
 
Theo chiều hướng này, không thiếu bằng chứng rõ ràng về những hậu quả tiêu cực của các cuộc can thiệp quân sự và chính trị không có sự phối hợp giữa các thành viên của cộng đồng quốc tế. Vì lý do này, dù rất tiếc, tôi vẫn phải lặp lại lời kêu gọi đã nói đi nói lại nhiều lần về tình hình bi đát của toàn vùng Trung Đông, Bắc Phi và các quốc gia khác ở châu Phi, nơi mà các Kitô hữu, cùng với các nhóm sắc tộc hay văn hoá khác, và cả các thành viên của tôn giáo đa số, là những người chẳng muốn bị cuốn vào hận thù và điên rồ, đã bị buộc phải chứng kiến việc tàn phá những nơi thờ tự của mình, di sản văn hoá và tôn giáo của mình, nhà cửa và tài sản của mình, và phải đứng trước việc lựa chọn: hoặc là chạy trốn, hoặc phải trả giá cho việc trung thành với điều thiện hảo và hoà bình bằng chính mạng sống của mình, hay phải làm nô lệ.
 
 
Những thực tại này cần được dùng để mạnh mẽ kêu gọi những người có trách nhiệm điều hành các vấn đề quốc tế kiểm điểm lương tâm mình. Không chỉ trong các trường hợp ngược đãi tôn giáo hay văn hoá, nhưng trong mọi tình huống xung đột, như ở Ukraina, Syria, Iraq, Libya, Nam Sudan và vùng Đại Hồ, những con người thực sự phải được ưu tiên hơn lợi ích của đảng phái, cho dù các lợi ích ấy có hợp pháp thế nào đi nữa. Trong chiến tranh và xung đột, có các cá nhân, anh chị em của chúng ta, nam và nữ, trẻ và già, trai và gái, phải than khóc, đau khổ và phải chết. Con người dễ dàng bị loại bỏ một khi giải pháp của chúng ta chỉ đơn giản là vẽ ra các danh sách gồm các vấn đề, các chiến lược và những bất đồng.
 
 
Như tôi đã viết trong lá thư gửi Ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vào ngày 09 tháng Tám 2014, “sự hiểu biết cơ bản nhất về phẩm giá con người buộc cộng đồng quốc tế, đặc biệt là thông qua các chuẩn mực và các bộ máy luật pháp quốc tế, phải làm tất cả những gì có thể làm để chấm dứt và ngăn chặn sự gia tăng bạo lực có hệ thống nhằm vào các nhóm thiểu số sắc tộc và tôn giáo” và để bảo vệ những người vô tội.
 
 
Theo cùng một cách ấy, tôi muốn nói đến một loại xung đột khác không phải lúc nào  cũng công khai, nhưng lại âm thầm sát hại hàng triệu người. Có một thứ chiến tranh mà nhiều xã hội chúng ta đang trải nghiệm là hậu quả của nạn buôn bán ma túy. Người ta coi cuộc chiến ấy là đương nhiên và chống lại nó cách yếu ớt. Tụ bản chất, buôn bán ma túy kéo theo nạn buôn người, rửa tiền, buôn bán vũ khí, bóc lột trẻ em và các hình thức suy đồi khác. Sự suy đồi đã thâm nhập vào nhiều tầng lớp khác nhau của đời sống xã hội, chính trị, quân sự, nghệ thuật và tôn giáo, và, trong nhiều trường hợp, đã làm nảy sinh một cấu trúc song song, đe doạ tính khả tín của các tổ chức của chúng ta.
 
 
Tôi đã mở đầu bài phát biểu này bằng cách nhắc lại những cuộc viếng thăm của các vị tiền nhiệm của tôi. Tôi hy vọng rằng những lời tôi nói trước hết sẽ được coi như tiếp nối lời của Đức giáo hoàng Phaolô VI; dù ngài phát biểu đã gần năm mươi năm nay, nhưng những lời ấy vẫn còn rất hợp thời. Xin trích: “Đã đến lúc dừng lại, hồi tâm, suy nghĩ, và cả cầu nguyện nữa, đó là điều tuyệt đối cần thiết để chúng ta có thể nghĩ lại về nguồn gốc chung của chúng ta, về lịch sử của chúng ta, số phận chung của chúng ta. Lời kêu gọi lương tâm đạo đức của con người chưa bao giờ khẩn thiết như ngày nay ... Vì nguy hiểm không phải từ tiến bộ hay khoa học mà đến; nếu những thứ này được sử dụng cách đúng đắn, chúng có thể giúp giải quyết nhiều vấn đề nghiêm trọng đang bao vây nhân loại” (Diễn văn đọc trước Tổ chức Liên Hiệp Quốc, 04 tháng Mười 1965). Tài năng của con người là một trong nhiều thứ  nếu được sử dụng đúng đắn, chắc chắn sẽ giúp giải quyết được những thách thức nghiêm trọng của việc suy thoái môi trường và việc loại trừ. Như Đức Phaolô VI đã nói: “Mối nguy hiểm thực sự từ con người mà ra, vì con người nắm trong tay những công cụ ngày càng mạnh hơn vừa dùng để tàn phá lại vừa dùng để đạt được những chinh phục cao quý” (tlđd.).
 
 
Ngôi nhà chung của mọi người nam và nữ phải tiếp tục được dựng xây trên nền tảng hiểu biết đúng đắn về tình huynh đệ phổ quát và tôn trọng tính thánh thiêng của mọi cuộc sống con người, của mỗi người nam cũng như nữ, người nghèo, người già, trẻ em, người khuyết tật, trẻ chưa sinh ra, người thất nghiệp, người bị bỏ rơi, người bị coi là bỏ đi vì chỉ được coi như một con số thống kê. Ngôi nhà chung này của mọi người nam và nữ cũng phải được xây trên sự hiểu biết về tính thánh thiêng nào đó của thiên nhiên đã được tạo thành.
 
 
Muốn hiểu biết và tôn trọng như thế phải có một mức độ khôn ngoan cao hơn, sự khôn ngoan đón nhận tính siêu việt và sự siêu vượt chính bản thân, khước từ việc tạo ra một tầng lớp tinh hoa toàn năng, và nhìn nhận rằng đời sống cá nhân và tập thể có được trọn vẹn ý nghĩa trong việc phục vụ người khác cách vị tha và trong việc sử dụng thiên nhiên cách khôn ngoan và tôn trọng, vì công ích. Xin lặp lại lời của Đức Phaolô VI: “Toà nhà văn minh hiện đại được xây dựng trên các nguyên tắc tinh thần, vì đó là những nguyên tắc duy nhất có khả năng không chỉ nâng đỡ nó, mà còn chiếu sáng nó” (tlđd.).
 
 
El Gaucho Martín Fierro, một tác phẩm văn chương cổ điển ở đất nước tôi, nói rằng: “Anh em cần phải sát cánh với nhau, vì đây là luật đầu tiên; hãy luôn giữ lấy mối dây liên kết thực sự giữa anh em, vào mọi lúc - bởi vì nếu anh em đánh nhau, anh em sẽ bị người ngoài xâu xé”.
 
 
Thế giới hiện nay, bề ngoài có vẻ rất gắn kết, nhưng lại đang bị phân mảnh về xã hội ngày càng nhiều và thường xuyên hơn, sự phân mảnh đe doạ “nền tảng của đời sống xã hội” và do vậy dẫn đến “những cuộc chiến do xung đột vì lợi ích riêng" (Laudato Si’, 229).
 
 
Thời đại ngày nay mời gọi chúng ta dành ưu tiên cho các hoạt động tạo ra các quy trình mới trong xã hội, để đem lại hoa trái trong các biến cố lịch sử quan trọng và tích cực (x. Evangelii Gaudium, 223). Chúng ta không thể cho phép mình trì hoãn “một số lịch trình” dành cho tương lai. Tương lai đòi hỏi chúng ta phải có những quyết định quan trọng mang tính toàn cầu trước các cuộc xung đột trên toàn thế giới khiến cho số người bị loại trừ và những người túng thiếu cứ tăng thêm.
 
 
Khuôn khổ pháp lý quốc tế đáng khen ngợi của Tổ chức Liên Hiệp Quốc và mọi hoạt động của nó, cũng như mọi nỗ lực khác của con người, có thể còn phải được cải thiện, nhưng nó vẫn cần thiết; đồng thời nó có thể bảo đảm một tương lai an toàn và hạnh phúc cho các thế hệ tương lai. Và nó sẽ làm được như thế, nếu các đại diện của các quốc gia biết bỏ qua một bên những lợi ích của đảng phái và ý thức hệ để thành tâm nỗ lực phục vụ công ích.
 
 
Tôi cầu xin Thiên Chúa Toàn Năng cho điều này trở thành hiện thực, và tôi đoan chắc sẽ trợ giúp và cầu nguyện cho quý vị, và mọi tín hữu của Giáo hội Công giáo cũng sẽ trợ giúp và cầu nguyện cho Tổ chức này, cho mọi quốc gia thành viên, và cho từng viên chức, được luôn phục vụ nhân loại cách hữu hiệu, một sự phục vụ tôn trọng tính đa dạng và có khả năng phát hiện điều tốt đẹp nhất nơi mỗi dân tộc và nơi mọi cá nhân, vì công ích. 
 
 
Xin Chúa chúc lành cho tất cả quý vị. Xin cám ơn!