TƯ LIỆU & VĂN HÓA

Canh tân hoạt động loan báo Tin Mừng tại Việt Nam ngày nay

Nhìn vào xã hội và Giáo Hội Việt Nam hôm nay, chúng ta nhận thấy cần phải Tân Phúc-Âm hóa với nhiệt huyết mới, phương pháp mới và cách diễn tả mới...

ĐGM Anphongsô Nguyễn Hữu Long

 

WGPSG -- Trong bài này, din gi trình bày hai phn:


1. Xem quá kh và xét hin ti đ đim li nhng gì đã làm được hay chưa làm được trong s v Loan Báo Tin Mừng (LBTM) ti Vit Nam 50 năm qua, k t Ad Gentes.


2. Phi làm gì trong tương lai đ công cuc LBTM có kết qu, da trên Evangelii Gaudium.

***


1.1 Cha Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập hàng Giáo phẩm tại Việt Nam (1960-2010), đã viết bài “Nhìn li s mng truyn giáo trong 50 năm qua”, trong đó ngài cho rằng hiệu quả truyền giáo tại Việt Nam chưa cao. Nếu căn cứ vào các thống kê thường niên của HĐGMVN, con số tín hữu công giáo tại Việt Nam không gia tăng mà lại có chiều hướng thụt lùi:

 

- Năm 1960, số giáo hữu tại Việt Nam là 2.000.000 / 30.000.000 người, tỷ lệ 6,93%.

 

- Năm 2000, số giáo dân là 5.200.000 / 77.000.000 người, tỷ lệ 6,70%.

 

- Năm 2008, con số này là 6.100.000 / 86.100.000 người, tỷ lệ 7,18%.

 

- Năm 2014, tổng số giáo dân là 6.606.495 / 95.247.775 người, tỷ lệ 6,93%

 

Kết quả là sau 55 năm (1960-2015), tỷ lệ dân số công giáo tại Việt Nam bằng nhau: 6,93%!

 

Số tín hữu gia nhập đạo, tức chịu phép Rửa tội, cho thấy thường do hai cách: hoặc sinh ra từ gia đình công giáo; hoặc do kết hôn với người có đạo (chiếm 80-90% trong số người lớn theo đạo). Như thế thì phải nói rằng việc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam sau 50 năm không có kết quả là bao, nếu dựa vào các con số thống kê.

 

1.2 Số người theo đạo không tương xứng với số nhân sự lo việc truyền giáo. Năm 2014, số linh mục cả nước là 4.635 (3.546 linh mục giáo phận và 1.089 linh mục dòng); số chủng sinh là 2.357, số tiền chủng sinh là 2.389; số tu sĩ là 19.717 (2.834 nam tu, 16.883 nữ tu); số giáo lý viên cả nước là 59.448 người. Tổng số các nhân sự gắn liền với việc truyền giáo là 88.546 người. Số người tân tòng gia nhập đạo năm 2014 là 41.395 người. So sánh hai con số 88.546 và 41.395, ta thấy cứ hai tín hữu ưu tuyển chưa đem được một người vào đạo. Đó là chưa nói đến con số rất lớn các hội viên hội đoàn công giáo tiến hành trong cả nước.

 

1.3 Trước 1975, miền Nam được thuận lợi để truyền giáo trong mọi lãnh vực như tôn giáo, giáo dục, y tế, bác ái xã hội, huấn nghệ, truyền thông đại chúng... GH được tự do truyền giáo, mở trường học các cấp, điều hành nhà thương, cô nhi viện, dưỡng đường, trường huấn nghệ. Về truyền thông, GH có nhà xuất bản, báo chí, đài truyền hình, đài phát thanh. Về truyền giáo, có Hội Thừa Sai Việt Nam. Các dòng ngoại quốc và dòng bản quốc được tự do phát triển. Trong khi đó, Giáo Hội tại miền Bắc bị bó tay hoàn toàn do những khó khăn xã hội. Nguyên việc lo cho người có đạo đã khó, nói gì đến việc truyền giáo. Nhiều giáo phận bị kiệt quệ về nhân sự do cuộc di cư năm 1954, và tiếp đó là khó khăn về vật lực.

 

1.4 Biến cố tháng 4.1975 làm cho toàn Giáo Hội Việt Nam lâm vào tình trạng khó khăn về tôn giáo. Giáo Hội mất hết mọi phương tiện để truyền giáo. Từ thập niên 1990 trở đi thì bắt đầu dễ dàng hơn nhờ sự cởi mở về tôn giáo. Các chủng viện, tu viện được chiêu sinh, việc phong chức linh mục và bổ nhiệm dần dần thuận lợi, việc xây dựng hay sửa chữa các cơ sở tôn giáo cũng dễ dàng hơn, các buổi lễ tôn giáo được tổ chức ở mọi cấp từ giáo xứ, giáo phận và toàn quốc. Các cuộc hành hương lên đến cả trăm ngàn người tại La Vang, Tà Pao, Sở Kiện, các đại lễ tại các giáo phận, giáo xứ được tổ chức hoành tráng, rầm rộ… Bước vào thiên niên kỷ thứ III, nhờ tiến bộ về khoa học kỹ thuật, những phương tiện truyền thông như internet, điện thoại di động, truyền hình cáp, website… lan rộng đến mọi nơi mọi người. Các giáo phận, hội dòng, hội đoàn và cá nhân đã vận dụng những tiến bộ này để đưa Tin Mừng đến với mọi người. Hiện nay, tuy tại một số địa phương vẫn còn những hạn chế và khó khăn về tôn giáo, nhưng phải nhìn nhận rằng GH có trong tay mọi phương thế để thực hiện công cuộc loan báo Tin Mừng, thế nhưng số người tin theo đạo vẫn không gia tăng! Nguyên nhân tại đâu?

 

1.5 Trước hết do GHVN chưa có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về công cuộc loan báo Tin Mừng. Muốn nhận thức đúng thì cần phải biết quan điểm, đường lối và hoạt động của GH về vấn đề truyền giáo. Năm mươi năm qua, GH đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng liên quan đến sứ vụ truyền giáo... Nhưng đa số tín hữu Việt Nam, kể cả các linh mục, tu sĩ, không được học hỏi thấu đáo, thì không thể có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về việc loan báo Tin Mừng.

 

1.6 Nguyên nhân thứ hai, giáo dân Việt Nam giữ đạo rất tốt cho mình, nhưng lại thiếu nhiệt huyết thông truyền niềm tin ấy cho người khác, họ nghĩ việc truyền giáo là của ai khác, phần mình chỉ lo cho mình được rỗi. Chính sự thiếu nhiệt huyết này làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam bị trì trệ, không có kết quả. Nhìn vào anh em Tin Lành tại Việt Nam, chúng ta thấy họ rất nhiệt tình truyền bá đạo. Trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, họ vẫn mạnh dạn và hăng say đem Tin Mừng giới thiệu cho mọi người, nhất là cho anh em dân tộc. Số tín đồ Tin Lành ngày càng cao. Tin Lành được truyền vào nước ta năm 1911, tức sau đạo công giáo 300 năm. Đến nay, chỉ sau 100 năm, Hội Thánh Tin Lành tại Việt Nam đã có khoảng 2.200.000 tín đồ, bằng 1/3 số giáo dân công giáo. Chúng ta cũng có thể nhìn vào Giáo hội Hàn Quốc. Giáo Hội này có nhiều điểm tương đồng với GHVN: cùng ở châu Á, cùng chịu ảnh hưởng Khổng Lão Phật, cùng chịu bách hại, cùng có nhiều chứng nhân đức tin... Vào khoảng thập niên 1960, tỷ lệ giáo dân tại Hàn quốc kém Việt Nam, nhưng sau đó đã gia tăng gấp đôi, và hiện nay đã đạt trên 11%. Giáo Hội Hàn quốc còn đề ra chiến dịch truyền giáo 20-20, nghĩa là họ kỳ vọng vào năm 2020, tỷ lệ giáo dân sẽ đạt 20%.

 

1.7 Nguyên nhân thứ ba, đó là vì thiếu nền tảng Kitô học vững chắc. Ðể có thể rao giảng Chúa Kitô cho dân tộc Việt Nam vốn nặng về Tam giáo, cần vững vàng về học thuyết Kitô giáo. Học thuyết này sẽ giúp người tín hữu thống nhất về mặt tư tưởng cũng như hành động với Ðức Giêsu và giới thiệu Ngài cho người khác, giải đáp thỏa đáng các vấn đề về Ðức Kitô trong tinh thần đại kết và đối thoại liên tôn. Trong nỗ lực đó, một vài giáo phận như Xuân Lộc đã tổ chức hội thảo “Kể chuyện Chúa Giêsu”. Không thể rao giảng Chúa Kitô nếu không biết Ngài. Ta biết Ngài qua Kinh Thánh, như lời thánh Hiêrônimô: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”, biết Ngài qua giáo lý của Hội Thánh. Nhưng phải nhìn nhận rằng kiến thức về Kinh Thánh, về giáo lý nơi đa số giáo dân Việt Nam ngày nay vẫn ở mức rất thấp, rất hạn hẹp.

 

1.8 Đời sống đạo của người tín hữu chưa đi đôi với niềm tin. Thiếu căn bản về giáo lý, kiến thức sơ sài về đạo làm cho đạo và đời không ăn nhập với nhau trong cuộc sống. Ðời sống đạo thể hiện nơi các nghi lễ, các hoạt động bên ngoài, hơn là vào niềm xác tín và cảm nghiệm bên trong. Ngày xưa Chúa đã dùng ngôn sứ Ysaia để khiển trách dân Israel thờ kính Chúa ngoài môi miệng còn lòng trí thì xa Chúa (cf Ys 29,13). Phải chăng chúng ta quá chú trọng đến hình thức bên ngoài, tổ chức các đại hội, lễ lạc, hành hương một cách hoành tráng, tốn phí, phô trương…, mà kết quả xét về mặt truyền giáo thì không có gì!

 

1.9 Những thách đố của thời đại như chủ nghĩa duy vật, hưởng thụ, tương đối gây ảnh hưởng khiến cho nhiều kitô hữu chỉ sống đạo vật vờ, như mặc cái áo. Ở ngoài Bắc, do nhiều năm thiếu vắng bí tích, nhà thờ, linh mục, nhiều giáo dân đã phai nhạt đức tin hoặc mất đức tin. Bây giờ, khi mọi sự có vẻ dễ dàng hơn, đời sống vật chất đỡ hơn, thì lại bị ảnh hưởng của não trạng hưởng thụ, ngại khó, dẫn đến thái độ hờ hững, giữ đạo chiếu lệ. Đức cha Phêrô Nguyễn Khảm trong một bài viết đăng trên báo Hiệp Thông, số 87, nêu lên ba điểm trong cách sống đạo của phái Ngũ Tuần, qua đó kêu gọi cũng phải nỗ lực như vậy nơi người công giáo: Believing (xác tín về niềm tin của mình); Belonging (cảm nhận sự gắn bó trong cộng đoàn); Beheaving (thể hiện niềm tin của mình, không mặc cảm, sợ hãi). 

 

1.10 Gần đây, một vấn nạn thường được đặt ra, đó là có nên truyền giáo không ? Nhiều người chủ trương không nên, vì cho rằng việc chiêu mộ tín đồ cải đạo là xâm phạm tự do của con người.  Tài liệu làm việc (Lineamenta) chuẩn bị cho THĐGM khóa XIII năm 2012, số 35-36 giải đáp vấn nạn này như sau:

 

“Ngày nay có mt s lm ln ngày càng tăng khiến nhiu người không nghe hoc không thi hành mnh lnh truyn giáo ca Chúa (xem Mt 28,19). Người ta thường ch trương rng tìm cách thuyết phc người khác theo đo là gii hn t do ca h. Theo quan đim này, ch được phép trình bày ý tưởng ca mình và mi gi người ta hành đng theo lương tâm h mà không nhm ti vic làm cho h tr li vi Đc Kitô và đc tin Công Giáo. Có th nói là ch cn giúp người ta tr nên nhân bn hơn hay trung thành hơn vi đo ca h; ch cn xây dng nhng cng đng tìm kiếm công lý, t do, hoà bình và tình liên đi. Hơn na, mt s người còn ch trương rng không cn phi loan báo Đc Kitô cho nhng ai không biết Ngài, hoc không cn phi khuyến khích h vào Hi Thánh, vì h vn có th được cu ri mà không cn phi minh nhiên biết Đc Kitô và không cn phi gia nhp Hi Thánh mt cách chính thc (số 35).

 

Thực ra, loan báo Tin Mừng để mời gọi người khác vào đạo vẫn là điều cần thiết:

 

“Mc dù nhng người không phi là Kitô hu vn có th được cu ri nh ân sng Thiên Chúa ban cho, bng nhng cách ch mt mình Người biết, song Hi Thánh không th không biết rng mi con người đu mun biết khuôn mt tht ca Thiên Chúa và vui hưởng hôm nay tình bn ca Đc Giêsu Kitô, Thiên-Chúa--cùng-chúng-ta. Việc gắn bó với Đức Kitô, Đấng là Sự Thật, và trở nên thành viên của Hội Thánh Người không làm gim t do con người, nhưng đúng hơn nó gia tăng t do và dn đưa t do ti ch hoàn thin nh mt tình yêu xả kỷ và sự chăm lo cho hạnh phúc của mọi người. Quả là một món quà vô giá khi được sống trong vòng tay yêu thương ca tt c các bn hu ca Thiên Chúa, nh được hip thông vi tht và máu ban s sng ca Con Thiên Chúa; và qu là vô giá khi đón nhn t Người s chc chn rng ti li ca chúng ta được tha, và được sng trong tình yêu phát sinh từ đức tin! Hội Thánh muốn mọi người được dự phần vào sự giàu cóy, để họ có thể đạt được chân lý sung mãn và các phương thế cu đ, đ “được cùng vi con cái Thiên Chúa chung hưởng t do và vinh quang (Rm 8,21). Khi loan báo và thông truyn đc tin, Hi Thánh bt chước chính Thiên Chúa, Đng t thông ban chính mình cho nhân loi bng vic ban Con ca Người là Đng đ tràn Thánh Thn đ mi người có th được tái sinh làm con cái Thiên Chúa  (số 36)

 

Sắc lệnh Ad Gentes số 7 cũng quả quyết: Dù Thiên Chúa có th dùng nhng đường li Ngài biết đ đưa nhng k không vì li mình mà chưa biết Phúc Âm đến vi đc tin, vì không có đc tin thì không th làm vui lòng Ngài, nhưng Giáo Hi có bn phn và đng thi có thánh quyn rao ging Phúc Âm; do đó, ngày nay và luôn mãi, hot đng truyn giáo vn còn gi trn vn hiu lc và cn thiết”.

 

ĐTC Phaolô VI khẳng định vị trí ưu tiên của việc rao giảng Tin Mừng và nhắc nhở các tín hữu: “S rt ích li nếu mi Kitô hu và mi người rao ging Tin Mng cu nguyn theo ý tưởng này: người ta cũng có th được cu ri bng nhng cách thc khác, cho dù chúng ta không rao ging Tin Mng cho h; nhưng đi vi chúng ta, liu chúng ta có th được cu ri hay không nếu vì sự trễ nải, sợ hãi hay hổ thẹn - điều mà Thánh Phaolô gọi là xấu hổ vì Tin Mừng - hay vì những tư tưởng sai lc mà chúng ta không rao ging Tin Mng?” (Tông huấn Evangelii Nuntiandi)

 

2. Còn nhiều điều cần phân tích thêm, nhưng ta hãy tạm bằng lòng với bấy nhiêu cái được và chưa được. Tâm tình của chúng ta khi nhìn về những điều đã làm được trong quá khứ là tạ ơn Chúa; về những điều chưa làm được là xin ơn hoán cải mục vụ để đẩy mạnh hơn sự canh tân sứ vụ loan báo Tin Mừng như ĐTC Phanxicô kêu gọi trong tông huấn EG số 25-33. Hướng về tương lai, ta thử rảo qua những điều cần phải làm, những lãnh vực phải lưu tâm, để canh tân công cuộc loan báo Tin Mừng cho hợp với thời đại hiện nay tại Việt Nam.

 

2.1 Trước hết, về phương diện cá nhân, sứ vụ loan báo Tin Mừng chỉ có hiệu quả nếu mỗi người kitô hữu có được mối tương quan cá nhân với Chúa Kitô, nói như thánh Phaolô: “Tôi biết tôi đã tin vào Đng nào” (2Tm 1,12). Chính sự xác tín vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ sẽ thúc đẩy người ấy mạnh dạn sống và loan báo Ngài cho người khác, như hai tông đồ Phêrô và Gioan đã mạnh dạn nói trước Thượng hội đồng khi bị cấm rao giảng về Đức Giêsu: “Nhng gì tai đã nghe, mt đã thy, chúng tôi không th không nói ra” (Cv 4,20). Đức thánh cha Phanxicô viết trong tông huấn Niềm vui của Tin Mừng: “Tôi kêu mi mi kitô hu khp nơi, ngay t lúc này, đi vào mt cuc gp g cá v và mi m vi Đc Giêsu Kitô” (EG số 3). Tài liệu làm việc của THĐGM khóa XIII cũng viết: “…vic tái khám phá tâm đim ca vic tân phúc âm hoá, đó là, s tri nghim đc tin Kitô giáo: gp g vi Đc Kitô, Tin Mng ca Thiên Chúa Cha cho nhân loi, là Tin Mng biến đi chúng ta, tp hp chúng ta li và dn đưa chúng ta, nh hng ân Chúa Thánh Thn, ti mt s sng mi mà chúng ta bây gi đã tri nghim ri, ngay trong vic chúng ta cm nhn mình được qui t thành Hi Thánh. Đng thi, s sng này là nguyên nhân ca nim vui thúc đy chúng ta làm nhng chng nhân và người hân hoan loan tin v hng ân đã nhn, đi khp các no đường trên thế gii, trong khi ngóng đi s hoàn thành Nước Thiên Chúa” (số 17).

 

2.2 Để có mối liên hệ mật thiết với Đức Giêsu Kitô, thì sự học hỏi Tin Mừng, giáo lý và huấn quyền của Giáo Hội, là những điều cần thiết cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Đã đến lúc GHVN phải quan tâm đào sâu sự hiểu biết này, chứ không thể để tình trạng dốt nát hiểu biết về Chúa tồn tại. Với những phương tiện và khả năng hiện có trong tầm tay, chúng ta không còn có thể đổ lỗi cho bất cứ ai hay bất cứ hoàn cảnh nào ngăn cản sự học hỏi, đào sâu kiến thức đạo. Giáo lý là nền tảng, là cái móng của cả tòa nhà, nên nếu không vững chắc thì cả tòa nhà sẽ sụp đổ. Phần lớn những người bỏ đạo hay hờ hững là vì họ không hiểu biết Tin Mừng và giáo lý đó thôi. Trong đại hội LBTM năm nay, chúng ta vui mừng được Đức cha Giuse Nguyễn Năng, chủ tịch UBGLĐT/HĐGMVN thuyết trình về đề tài “Canh tân các hoạt động huấn giáo theo viễn tượng truyền giáo” rất thích hợp.

 

2.3 Khích lệ và tạo điều kiện để giáo dân tham gia vào sứ vụ truyền giáo. Công đồng Vatican II đề cao vai trò đi đầu của người tín hữu trong mọi phương diện, nhất là truyền giáo. Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân của công đồng Vatican II cho ta một số nhận định về vai trò truyền giáo của giáo dân như sau:   

 

- Người giáo dân góp phần loan báo Tin Mừng bằng chứng tá đời sống và bằng lời rao giảng của họ: “Chính chng tá ca đi sng Kitô hu và nhng vic lành được làm vi tinh thn siêu nhiên có sc lôi kéo người ta đến đc tin và đến vi Thiên Chúa, vì Chúa phán: "S sáng ca các con phi chiếu giãi trước mt mi người, đ h xem thy vic lành các con mà ngi khen Cha các con trên tri" (Mt 5,16). Tuy nhiên vic tông đ này không ch ti vic làm chng bng đi sng. Người tông đ đích thc còn tìm dp loan truyn Chúa Kitô bng li nói hoc cho người chưa tin đ đưa h đến đc tin, hoc cho tín hu đ giáo hun h, cng c và thúc đy h sng st sng hơn "vì tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta" (2 Cor 5,14) và trong lòng mi người phi âm vang li Thánh Tông Ð: "Tht khn cho tôi nếu tôi không rao ging Phúc Âm" (1Cor 9,16) (TĐGD số 6);

 

- “Trong nhng miền thiếu linh mục hay khi các ngài không được tự do thi hành chức vụ, thì Giáo Hội khó có thể hiện diện và hoạt động hữu hiệu nếu không nhờ giáo dân cộng tác” (TĐGD số 1); “Việc tông đồ cá nhân có môi trường hoạt động đặc biệt trong những miền người công giáo ít oi và tản mát”. (TĐGD số 17). “Việc tông đồ cá nhân này rất cần thiết và cấp bách trong những miền mà tự do của Giáo Hội bị cản trở trầm trọng. Trong những hoàn cảnh khó khăn đó, giáo dân tùy khả năng thay thế linh mục, họ liều mất tự do của mình và đôi khi ngay cả mạng sống mình để dạy giáo lý công giáo cho những người chung quanh, huấn luyện cho những người ấy biết sống đạo và khuyến khích họ năng lãnh nhận các bí tích và đặc biệt tôn sùng phép Thánh Thể. Thánh Công Ðồng hết lòng tạ ơn Thiên Chúa đã không ngừng cho xuất hiện ngay cả trong thời đại chúng ta những người giáo dân can đảm phi thường giữa những cơn bách hại. Thánh Công Ðồng lấy tình người cha yêu thương và tri ân họ” (TĐGD số 16). Tại giáo phận Hưng Hóa, có những cộng đoàn người H’Mông ở xã Na Cô Sa, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, suốt mấy chục năm không có bóng dáng linh mục, không nhà thờ, không bí tích, nhưng họ vẫn giữ được đức tin nhờ chính những người giáo dân dạy giáo lý cho nhau, rửa tội cho nhau, và đùm bọc nhau giữ đạo, bất chấp mọi ngăn cản, cấm đoán, trở ngại. Thật đáng ngưỡng phục những con người đơn sơ nghèo hèn bé mọn này!

 

- Muốn thế, điều cần thiết là phải huấn luyện người tín hữu sâu sắc về đức tin, trang bị cho họ vốn kiến thức giáo lý. “Việc tông đồ chỉ đạt tới kết quả mỹ mãn nhờ việc huấn luyện đầy đủ và chuyên biệt” (TĐGD số 28), điều mà chúng ta thấy còn rất thiếu nơi tín hữu Việt Nam, chính vì thế mà họ ngại ngùng không dám nói về niềm tin của mình.

 

Trong đại hội LBTM này, chúng ta sẽ được nghe cha Trưởng ban LBTM giáo phận Xuân Lộc trình bày về việc đào tạo tác viên Tin Mừng là những giáo dân, cũng như hoạt động của họ, được biết là mang lại nhiều kết quả. Đây cũng là tân Phúc-Âm hóa bằng phương pháp mới. Ước mong kế hoạch đào tạo tác viên Tin Mừng được nhân rộng tại các giáo phận Việt Nam.

 

2.4 GHVN phải đáp ứng lời kêu gọi của Đức thánh cha Phanxicô: “Ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình, để đến với mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng” (EG số 20). Đây là âm vang lệnh lên đường của Chúa Giêsu trước khi về trời: “Anh em hãy ra đi khắp tứ phương thiên hạ, giảng dạy cho muôn dân và làm phép rửa cho họ”. Thật đáng ngưỡng mộ khi một số hội dòng trong nước đã gửi tu sĩ của mình ra đi đến năm châu bốn bể để loan báo Tin Mừng, mặc dù trong nước vẫn còn nhiều nơi anh em đồng bào của ta chưa được biết Chúa là ai. Công cuộc truyền giáo và tái truyền giáo vẫn còn ngổn ngang và bức thiết. Đạo Công giáo đã hiện diện tại Việt Nam trong 4 thế kỷ, thế mà còn rất nhiều người Việt nam chưa biết Chúa là Đấng nào, nhiều đồng bào dân tộc chưa hề được nghe nói về Chúa ! Tại Hưng Hóa, sau 70 năm (từ 1945) sống dưới chế độ, rất nhiều anh chị em giáo hữu gốc Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình di dân lập nghiệp tại các tỉnh vùng Tây Bắc đã lơ là nguội lạnh, thậm chí mất đức tin. Con số lên đến trăm ngàn người chứ không ít! Chúng ta phải cảm nghiệm bài học thấm thía của dụ ngôn tìm chiên lạc: Người mục tử tốt lành ấy dám để 99 con trong hoang địa để đi tìm con chiên lạc cho bằng được. Thấy rồi, anh vác chiên lên vai, đem về nhà, mời bạn bè chung vui. Chúng ta nhìn nhận rằng GHVN vẫn còn thờ ơ với sứ vụ loan báo Tin Mừng. Các linh mục chỉ mới lo cho các con chiên ngoan đạo, còn chiên lạc đàn thì chưa quan tâm đến. Các dòng tu còn lẩn quẩn với việc mưu sinh hoặc lo phát triển cơ sở vật chất, chưa dám mạnh dạn dấn thân ra đi đến vùng sâu vùng xa, vùng biên giới. ĐTGM Bùi Văn Đọc, trong bài nói chuyện với hội nghị Bề trên Thượng cấp các dòng tại K’Long ngày 5.11.2013 đã nói: “Giáo hội tại Việt Nam trong thời hiện đại, chưa chu toàn đầy đủ sứ vụ loan báo Tin mừng. Có những cố gắng còn rời rạc, chưa được nối kết và hướng dẫn. Cần phải có một sự “chuyển mình thật mạnh dạn, thật can đảm từ mục vụ bảo trì” (pastorale de maintien), gìn giữ và bảo vệ chế, cơ sở, sang mục vụ truyền giáo đích thực (pastorale missionnaire)”. Chúng ta mong GHVN mạnh dạn đứng dậy, mở cửa, ra đi mọi miền, để đem Tin Mừng Chúa đến với anh chị em đồng bào. Ước gì các giáo phận dồi dào về nhân lực và vật lực sẵn sàng chia sẻ với các giáo phận thiếu thốn. Lấy giáo phận Hưng Hóa làm thí dụ: đây là giáo phận rộng mênh mông bao la, diện tích 54.500 km2, có nhiều dân tộc thiểu số (27/54 dân tộc), địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, dân cư tản mát. Giáo phận chịu nhiều thương đau  trong suốt 70 năm qua, từ 1945. Vì thời gian dài không có linh mục, bí tích, cộng đoàn, nên con số tín hữu lơ là nguội lạnh rất nhiều. Công cuộc truyền giáo và tái truyền giáo tại đây thật bức thiết. Hiện tại, giáo phận vẫn còn ít linh mục, tu sĩ, khốn khó về vật chất. Giáo phận Hưng Hóa mong được các giáo phận có nhiều linh mục tu sĩ san sẻ nhân sự giúp cho giáo phận theo mô hình Fidei Donum, trong khi chờ đợi giáo phận có thêm các linh mục, nhưng xem ra khó được hưởng ứng. 

 

2.5 Các lãnh vực cần Tân Phúc-Âm hóa ngày nay, cách riêng tại Việt Nam, theo Lineamenta của THĐGM khóa XIII:

 

- Lãnh vực văn hóa: Trào lưu tục hóa đang lan tràn nhanh tại Việt Nam. Do ảnh hưởng thuyết vô thần thực tiễn, não trạng hưởng thụ vật chất ngày càng tăng, người Việt Nam xưa vốn dễ hướng chiều về tôn giáo, nay dễ dàng loại trừ hoặc dửng dưng với niềm tin tôn giáo. Hoặc họ bằng lòng với những hình thức tín ngưỡng tâm linh lệch lạc để bù trừ và để trấn an tâm hồn vốn khát vọng Đấng Chân Thiện Mỹ đích thật. Ngay nơi những tín hữu công giáo, ta cũng dễ nhận thấy tâm thức tín ngưỡng cầu khẩn, vụ lợi. Một tâm thức như thế sẽ khó đứng vững trước những thử thách của đức tin. Lãnh vực này thật là một thách thức cho công cuộc Tân Phúc-Âm hóa tại Việt Nam, đòi hỏi chúng ta có nhiệt huyết mới, phương pháp mới và cách diễn tả mới cho thích hợp với người thời đại thì mới mong thành công.

 

- Lãnh vực xã hội: Tại Việt Nam, hiện tượng di dân về các thành phố lớn để kiếm sống đã làm xáo trộn những truyền thống tốt đẹp như tình gia đình, nghĩa vợ chồng, tình làng xóm, để nghiêng theo chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ. Về mặt tôn giáo, hiện tượng di dân cũng tác động nặng nề để dễ mất đi niềm tin và sự thực hành tôn giáo nơi những tín hữu trẻ tuổi trong môi trường xa lạ, thiếu vắng sự nâng đỡ của xứ đạo, gia đình, hội đoàn. Đây chính là “vùng ngoại vi” mà công cuộc tân Phúc-Âm hóa cần thâm nhập.

 

- Lãnh vực kinh tế: Tại Việt Nam, sự chênh lệch giàu nghèo rất lớn, kéo theo nhiều vấn đề: di dân kinh tế, hấp lực của đồng tiền, phân biệt đối xử (trọng phú khinh bần), làm ăn bất chính (táng tận lương tâm), bạo lực (cá lớn nuốt cá bé), tham nhũng hối lộ…, trong nhiều trường hợp dẫn đến chỗ dửng dưng với tôn giáo. Sách Châm Ngôn 30,7: “Xin đng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài mà nói: "Đức Chúa là ai vậy?" hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con. Tân Phúc-Âm hóa thực tế là GH phải nêu chứng tá nghèo khó, gần gũi người nghèo, đứng về phía họ theo lời kêu gọi của